Search Dental Tribune

Kết quả nghiên cứu sứt môi/vòm miệng và chuyển hóa ở mẹ khiến các nhà nghiên cứu ngạc nhiên

Giáo dục sức khỏe do các bác sĩ nha khoa cung cấp có thể giúp các bà mẹ tương lai theo dõi và giảm thiểu rủi ro mắc bệnh sứt môi miệng ở trẻ sơ sinh. (Ảnh: Andrey_Popov/Shutterstock)
Anisha Hall Hoppe, Dental Tribune Internation

Anisha Hall Hoppe, Dental Tribune Internation

T4. 24 Tháng 7 2024

Lưu lại

Tháng trước, Dental Tribune International (DTI) đã đề cập đến một nghiên cứu mới về mức độ ảnh hưởng của chuyển hóa lipid và cân nặng của người mẹ đến nguy cơ sứt môi miệng (OFC) ở trẻ sơ sinh, dựa trên nghiên cứu được thực hiện ở Thái Lan. Nghiên cứu chỉ ra rằng những bà mẹ có cân nặng ngoài mức bình thường và những người có hàm lượng cholesterol lipoprotein mật độ cao (HDL-C) thấp có nhiều khả năng sinh con mắc bệnh OFC. DTI đã nói chuyện với một trong những nhà nghiên cứu, Tiến sĩ Waranuch Pitiphat của Đại học Khon Kaen ở Thái Lan về kết quả này.

Tiến sĩ Pitiphat, ông lưu ý rằng có rất ít nghiên cứu về mối liên quan giữa hội chứng chuyển hóa và OFC. Đó có phải là động lực chính để bạn nghiên cứu mối liên hệ giữa tình trạng trao đổi chất của người mẹ và nguy cơ OFC ở trẻ sơ sinh?

Đúng, số lượng nghiên cứu khám phá mối liên hệ này còn hạn chế là động lực chính cho cuộc điều tra của chúng tôi. Chúng tôi nhận ra lỗ hổng trong việc hiểu tình trạng trao đổi chất của người mẹ có thể ảnh hưởng như thế nào đến nguy cơ OFC ở trẻ sơ sinh. Do tỷ lệ rối loạn chuyển hóa ngày càng tăng như béo phì và rối loạn lipid máu, bắt buộc phải kiểm tra tác động tiềm tàng của chúng đối với các dị tật bẩm sinh như OFC. Nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục đích cung cấp những hiểu biết sâu sắc có thể hướng dẫn các chiến lược phòng ngừa và nâng cao các khuyến nghị chăm sóc trước khi sinh.

Những phát hiện đáng ngạc nhiên nhất từ ​​nghiên cứu của ông là gì? Có kết quả nào mâu thuẫn với giả thuyết ban đầu của ông không?

Một trong những phát hiện đáng ngạc nhiên nhất là mối liên quan đáng kể giữa mức HDL-C thấp của mẹ và nguy cơ mắc OFC tăng lên. Điều này thật bất ngờ vì trọng tâm chính là các yếu tố trao đổi chất được thảo luận phổ biến hơn như béo phì và mức lipid tổng thể. Sự tồn tại của mối liên hệ này ngay cả sau khi điều chỉnh việc hút thuốc thụ động và các yếu tố gây nhiễu khác là đặc biệt đáng chú ý. Ngoài ra, trong khi chúng tôi đưa ra giả thuyết về mối liên hệ giữa béo phì và OFC, thì việc phát hiện ra rằng cả chỉ số khối cơ thể của bà mẹ thiếu cân và thừa cân hoặc béo phì đều có liên quan đáng kể đến nguy cơ OFC tăng lên là điều đáng ngạc nhiên và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì cân nặng khỏe mạnh trên toàn bộ quang phổ.

Ông có thể giải thích rõ hơn về các cơ chế tiềm ẩn đằng sau mối liên quan giữa bệnh béo phì của bà mẹ và nguy cơ OFC cũng như những cơ chế này có thể ảnh hưởng như thế nào đến các khuyến nghị chăm sóc trước khi sinh?

Các cơ chế tiềm năng đằng sau sự liên kết có thể liên quan đến một số yếu tố. Béo phì thường đi kèm với tình trạng viêm mãn tính, kháng insulin và rối loạn chuyển hóa lipid, có thể ảnh hưởng xấu đến chức năng nhau thai và sự phát triển của thai nhi. Cụ thể, chức năng mạch máu nhau thai bị thay đổi do rối loạn lipid máu liên quan đến béo phì có thể dẫn đến việc cung cấp không đủ oxy và chất dinh dưỡng cho thai nhi đang phát triển, góp phần gây ra các dị tật bẩm sinh như OFC.

Về các khuyến nghị chăm sóc trước khi sinh, những phát hiện của chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc theo dõi và quản lý cân nặng của bà mẹ cũng như sức khỏe trao đổi chất trước và trong khi mang thai. Các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nên nhấn mạnh đến việc ăn uống lành mạnh, hoạt động thể chất thường xuyên và có thể cả các chiến lược hạ lipid để duy trì trọng lượng cơ thể tối ưu và nâng cao mức HDL-C. Các biện pháp can thiệp phù hợp nhằm đạt được và duy trì trạng thái trao đổi chất lành mạnh có thể làm giảm nguy cơ mắc OFC.

Xem xét vai trò của dinh dưỡng bà mẹ được nêu bật trong nghiên cứu của ông, làm thế nào các bác sĩ nha khoa có thể tư vấn tốt hơn cho bệnh nhân mang thai để có khả năng giảm nguy cơ OFC?

Các bác sĩ lâm sàng nha khoa có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc tư vấn cho bệnh nhân mang thai về việc điều chỉnh dinh dưỡng và lối sống để có thể giảm nguy cơ OFC và các kết quả bất lợi khác khi mang thai. Họ nên khuyến khích bệnh nhân áp dụng chế độ ăn uống cân bằng giàu chất dinh dưỡng thiết yếu, bao gồm axit folic và axit béo omega-3, rất cần thiết cho sự phát triển của thai nhi. Các bác sĩ lâm sàng cũng có thể giáo dục bệnh nhân về tầm quan trọng của việc duy trì cân nặng khỏe mạnh thông qua hoạt động thể chất thường xuyên và tránh ăn quá nhiều thực phẩm giàu chất béo và nhiều đường. Ngoài ra, họ có thể cung cấp tài nguyên và giới thiệu đến các chuyên gia dinh dưỡng hoặc chuyên gia dinh dưỡng để lập kế hoạch ăn kiêng cá nhân. Bằng cách tích hợp các biện pháp phòng ngừa này vào các lần khám nha khoa định kỳ, các bác sĩ lâm sàng có thể góp phần cải thiện kết quả sức khỏe tổng thể của bà mẹ và thai nhi.

Ông có muốn độc giả của chúng tôi biết điều gì khác về nghiên cứu này hoặc bất kỳ nghiên cứu nào khác đang diễn ra mà ông đang thực hiện không?

Ngoài phạm vi của nghiên cứu này, chúng tôi đang tiếp tục khám phá các yếu tố khác nhau có thể ảnh hưởng đến nguy cơ mắc OFC. Công việc gần đây nhất của chúng tôi tập trung vào mối liên quan giữa các dấu ấn sinh học vi chất dinh dưỡng của mẹ, chẳng hạn như vitamin B12 và homocysteine, và nguy cơ mắc OFC. Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu mức độ dinh dưỡng cụ thể của người mẹ có thể bảo vệ chống lại hoặc góp phần vào nguy cơ mắc các dị tật bẩm sinh này như thế nào. Mặc dù những phát hiện này chưa được công bố nhưng chúng nhấn mạnh tầm quan trọng tiềm ẩn của dinh dưỡng bà mẹ đối với sức khỏe trước khi sinh và có thể dẫn đến các biện pháp can thiệp dinh dưỡng có mục tiêu nhằm giảm nguy cơ OFC. Chúng tôi rất vui mừng về những tác động tiềm ẩn của nghiên cứu này trong việc cải thiện kết quả sức khỏe bà mẹ và thai nhi.

Ghi chú biên tập:

Nghiên cứu có tiêu đề “Tình trạng trao đổi chất của bà mẹ và nguy cơ sứt môi hở hàm ếch: Một nghiên cứu bệnh chứng ở Thái Lan”, được công bố trực tuyến vào ngày 12 tháng 4 năm 2024 trên Tạp chí Nha khoa Quốc tế, trước khi đưa vào tạp chí này.

Chủ đề:
Thẻ:
To post a reply please login or register
advertisement
advertisement