DT News - Vietnam - Sức khỏe răng miệng tốt liên quan đến khả năng sống sót được cải thiện ở bệnh nhân ung thư đầu và cổ

Search Dental Tribune

Sức khỏe răng miệng tốt liên quan đến khả năng sống sót được cải thiện ở bệnh nhân ung thư đầu và cổ

Việc giữ lại bộ răng tự nhiên và tần suất khám răng đã được xác định là những yếu tố giúp sống sót sau ung thư biểu mô tế bào vảy ở đầu và cổ. (Ảnh: Mark_Kostich/Shutterstock)
Anisha Hall Hoppe, Dental Tribune Internation

Anisha Hall Hoppe, Dental Tribune Internation

T4. 22 Tháng 11 2023

save

CHAPEL HILL, N.C., Hoa Kỳ: Ung thư biểu mô tế bào vảy ở đầu và cổ (HNSCC) là mối lo ngại về sức khỏe toàn cầu, được xếp hạng là bệnh ác tính phổ biến thứ sáu trên toàn thế giới. Sức khỏe răng miệng kém đã nổi lên như một yếu tố nguy cơ độc lập đối với HNSCC. Các khía cạnh khác nhau của sức khỏe răng miệng kém, chẳng hạn như mất răng, bệnh nha chu, đánh răng không thường xuyên và không đến khám nha khoa, có liên quan đến nguy cơ mắc HNSCC tăng vừa phải. Tuy nhiên, dữ liệu còn hạn chế về mức độ ảnh hưởng của sức khỏe răng miệng đến khả năng sống sót của HNSCC. Một nghiên cứu gần đây nhằm giải quyết khoảng cách này bằng cách phân tích dữ liệu từ Hiệp hội Dịch tễ học Ung thư Đầu và Cổ Quốc tế, đại diện cho phân tích lớn nhất về loại này cho đến nay.

Phân tích toàn diện này bao gồm 10.042 bệnh nhân HNSCC từ các khu vực địa lý khác nhau và tập trung vào nhân khẩu học, các yếu tố lâm sàng, sức khỏe răng miệng, điều trị và khả năng sống sót. Phần lớn bệnh nhân là nam giới và những người tham gia có độ tuổi trung bình là 59,8. Hầu hết đều bị ung thư giai đoạn cuối và được điều trị bằng phẫu thuật.

Về sức khỏe răng miệng, phần lớn có hơn 20 chiếc răng tự nhiên, đánh răng ít hơn một lần mỗi ngày, sử dụng nước súc miệng và đã đến nha sĩ từ 1 đến 5 lần trong thập kỷ qua. Nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân HNSCC có hơn 10 chiếc răng tự nhiên có khả năng sống sót tốt hơn so với những người không có răng và những người có tiền sử đi khám nha khoa hơn 5 lần trong thập kỷ qua có khả năng sống sót tốt hơn so với những người không đến khám nha khoa. Những mối liên quan này đặc biệt rõ rệt ở những bệnh nhân mắc bệnh hạ họng, thanh quản và HNSCC không xác định. Các yếu tố sức khỏe răng miệng khác như chảy máu nướu, tần suất đánh răng và sử dụng nước súc miệng cho thấy sự khác biệt nhỏ hơn về khả năng sống sót.

Những phát hiện này nêu bật tầm quan trọng của răng tự nhiên và tần suất khám răng như những yếu tố tiên lượng độc lập ở HNSCC. Thăm khám nha khoa thường xuyên có liên quan đến chẩn đoán HNSCC giai đoạn đầu, cho thấy khả năng phát hiện bệnh sớm và cải thiện khả năng sống sót. Khu vực địa lý cũng được cho là có liên quan đến khả năng sống sót, bệnh nhân ở Nam Mỹ và Châu Âu có kết quả tốt hơn so với bệnh nhân ở Bắc Mỹ.

Mặc dù có những điểm mạnh nhưng nghiên cứu vẫn có những hạn chế. Có sự khác biệt trong định nghĩa và đo lường các thông số sức khỏe răng miệng giữa các nghiên cứu và thiếu thông tin về vệ sinh răng miệng sau điều trị và tiêu thụ rượu đối với một số người tham gia. Tuy nhiên, những kết quả này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì sức khỏe răng miệng ở bệnh nhân HNSCC không chỉ để ngăn ngừa các biến chứng liên quan đến điều trị mà còn có khả năng cải thiện khả năng sống sót. Cần có những nghiên cứu tiến cứu sâu hơn để xác nhận và mở rộng những phát hiện này cũng như khám phá các cơ chế cơ bản. Mặc dù các cơ chế chính xác liên quan đến sức khỏe răng miệng với bệnh ung thư vẫn chưa rõ ràng, nhưng các giả thuyết bao gồm chấn thương mãn tính, viêm miệng và những thay đổi trong hệ vi sinh vật miệng.

Năm 2020, có 878.348 trường hợp mới được chẩn đoán và 444.347 trường hợp tử vong được báo cáo liên quan đến căn bệnh ung thư này. Có sự khác biệt theo khu vực phản ánh sự khác biệt trong việc phân bổ các yếu tố nguy cơ đã biết, bao gồm hút thuốc, uống rượu, nhiễm vi rút u nhú ở người và tình trạng kinh tế xã hội.

Nghiên cứu có tiêu đề “Sức khỏe răng miệng kém ảnh hưởng đến khả năng sống sót của bệnh nhân ung thư đầu và cổ: Phân tích tổng hợp của Hiệp hội Dịch tễ học Ung thư Đầu và Cổ Quốc tế”, được công bố trực tuyến vào ngày 19 tháng 9 năm 2023 trên Tạp chí của Viện Ung thư Quốc gia, trước khi đưa vào một số báo.

Tags:
To post a reply please login or register
advertisement
advertisement