DT News - Vietnam - Các nang sừng gây ra mùi không được chẩn đoán trong thời gian quá dài

Search Dental Tribune

Các nang sừng gây ra mùi không được chẩn đoán trong thời gian quá dài

Một cỡ mẫu lớn đã mang lại một số kết quả đáng chú ý trong một nghiên cứu của Phần Lan về OKC. (Ảnh: Suttha Burawonk/Shutterstock)
Anisha Hall Hoppe, Dental Tribune Internation

Anisha Hall Hoppe, Dental Tribune Internation

T4. 22 Tháng 11 2023

save

TURKU, Phần Lan: Được cho là phát sinh từ phần còn sót lại của lá răng, nang sừng do răng (OKC) chiếm khoảng 5%–15% tổng số u nang do răng và xuất hiện dưới dạng tổn thương đơn độc hoặc nhiều tổn thương. Chúng thường phát triển nhanh chóng và có tỷ lệ tái phát cao. Nghiên cứu được thực hiện tại Đại học Turku trên dân số Phần Lan đã phát hiện ra rằng bệnh nhân mắc OKC có xu hướng lớn tuổi hơn vào thời điểm chẩn đoán và u nang của họ thường bị viêm hơn so với báo cáo trong tài liệu. Các phát hiện cho thấy sự chậm trễ trong chẩn đoán, vì OKC thường không có triệu chứng và có thể không bị phát hiện cho đến khi các triệu chứng như sưng tấy hoặc nhiễm trùng biểu hiện.

Nghiên cứu hồi cứu đã xem xét dữ liệu trên 174 bệnh nhân được chẩn đoán mắc OKC từ năm 1980 đến năm 2016, nhằm đánh giá các đặc điểm mô bệnh học, tỷ lệ mắc và tái phát của OKC ở tây nam Phần Lan, khu vực chiếm 9% dân số Phần Lan. Nó báo cáo tỷ lệ mắc bệnh là 7,7 trường hợp mỗi năm, phù hợp với sự hiếm có của các báo cáo OKC trong tài liệu.

Ngoài việc phát hiện ra rằng bệnh nhân lớn tuổi hơn, có độ tuổi trung bình là 46, tại thời điểm chẩn đoán so với các báo cáo trước đó, nghiên cứu còn phát hiện ra rằng đáng chú ý 95% OKC bị viêm, con số cao hơn 76% được báo cáo trước đó. . Tỷ lệ viêm nhiễm cao ủng hộ lý thuyết chẩn đoán muộn, sự chậm trễ đã khiến các u nang không được phát hiện phát triển lớn hơn và khiến hệ thống miễn dịch có thời gian kích hoạt tình trạng viêm.

So với 15%–63% trong tài liệu, tỷ lệ tái phát của OKC trong nghiên cứu là 21%. Tỷ lệ cao chưa được hiểu đầy đủ nhưng có thể bị ảnh hưởng bởi các phương pháp điều trị, loại bỏ không đúng cách và sự hiện diện của các nang vệ tinh cực nhỏ, được tìm thấy trong 10% trường hợp, so với 20%–71% trong tài liệu. U nang vệ tinh có liên quan đến tình trạng viêm mãn tính và khả năng tái phát cao hơn và xảy ra phổ biến hơn ở hàm trên. Nghiên cứu cũng quan sát thấy tỷ lệ u nang vệ tinh ở phụ nữ cao hơn một chút. Các tác giả đề nghị nghiên cứu thêm để làm rõ nguyên nhân tái phát và mối quan hệ giữa u nang vệ tinh và tái phát OKC.

Các tác giả cũng cho rằng tuổi bệnh nhân OKC lớn hơn và tỷ lệ mắc u nang viêm cao hơn có thể góp phần vào sự phát triển của u nang vệ tinh. Họ nhấn mạnh rằng điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm tra chụp X quang thường xuyên, chẳng hạn như chụp X quang toàn cảnh, đặc biệt là trong thập kỷ thứ hai và thứ ba của cuộc đời, để tạo điều kiện phát hiện sớm và quản lý OKC. Họ cũng khuyến cáo rằng sự xuất hiện của các u nang vệ tinh phải được báo cáo về mặt mô bệnh học, vì chúng có thể biểu thị nguy cơ tái phát OKC tăng lên.

Theo tài liệu, OKC trong nghiên cứu cho thấy thiên hướng nam giới và xảy ra phổ biến hơn ở hàm dưới. Trong số các bệnh nhi chiếm 6% nhóm nghiên cứu, tỷ lệ tái phát là 19%, tương tự như tỷ lệ chung của nghiên cứu. Hai bệnh nhân bị OKC tái phát mắc hội chứng Gorlin, một tình trạng đã được biết là có liên quan đến nhiều OKC.

Điểm mạnh của nghiên cứu nằm ở cỡ mẫu lớn và thời gian theo dõi rộng rãi, cung cấp bộ dữ liệu mạnh mẽ để phân tích. Tuy nhiên, nghiên cứu gặp phải những hạn chế do sử dụng thư giới thiệu để thu thập dữ liệu thay vì hồ sơ y tế toàn diện của bệnh nhân, vốn có thể cung cấp những hiểu biết chi tiết hơn về lâm sàng và X quang.

Nghiên cứu có tiêu đề “Sự xuất hiện và tái phát của u nang sừng gây ra răng”, được công bố trên tạp chí Nghiên cứu Nha khoa Lâm sàng và Thực nghiệm số tháng 10 năm 2023.

Tags:
To post a reply please login or register
advertisement
advertisement